Nguồn gốc HMS_Dreadnought_(1906)

Bối cảnh

Sự phát triển kỹ thuật pháo vào cuối thập niên 1890 và đầu thập niên 1900, do Percy Scott tiến hành tại Anh Quốc và William Sims tại Hoa Kỳ, đã đẩy mạnh tầm xa đối đầu trong chiến trận lên đến khoảng cách chưa từng thấy 6.000 thước Anh (5.500 m), khoảng cách đủ lớn để buộc pháo thủ phải đợi cho đến khi đạn rơi trước khi áp dụng hiệu chỉnh cho loạt đạn tiếp theo. Một vấn đề liên quan là chớp đạn pháo của nhiều vũ khí cỡ nhỏ có xu hướng che khuất ánh chớp của pháo cỡ lớn. Do đó pháo cỡ nhỏ phải ngừng bắn đợi các khẩu pháo lớn có tốc độ bắn chậm, và do đó mất đi ưu thế tốc độ bắn nhanh; hoặc là không thể xác định ánh chớp là của pháo hạng nặng hay pháo hạng nhẹ, khiến cho việc đo tầm xa và ngắm bắn không tin cậy. Một vấn đề khác là ngư lôi tầm xa được cho là sẽ đưa ra sử dụng trong một tương lai gần, và chúng sẽ ngăn cản tàu chiến thu ngắn khoảng cách, nơi tốc độ bắn nhanh hơn của các cỡ pháo nhỏ trở nên có ưu thế. Giữ cho khoảng cách ở xa loại trừ mối đe dọa của ngư lôi đồng thời củng cố thêm yêu cầu pháo hạng nặng với cỡ nòng đồng nhất.[4]

Vào năm 1903, nhà thiết kế hải quân người Ý Vittorio Cuniberti lần đầu tiên viết ra khái niệm thiết giáp hạm toàn-súng-lớn. Khi Hải quân Ý không theo đuổi sáng kiến của ông, Cuniberti viết một bài trên tạp chí Jane's Fighting Ships biện luận cho khái niệm của mình. Ông đề xuất một thiết giáp hạm Anh "lý tưởng" trong tương lai có trong lượng choán nước 17.000 tấn Anh (17.000 t), với một dàn pháo chính gồm một tá pháo 12 inch (305 mm) trên tám tháp pháo, đai giáp chính dày 12 inch và một tốc độ tối đa 24 hải lý một giờ (44 km/h; 28 mph).[5]

Thiết giáp hạm Nhật Bản "bán-dreadnought" Satsuma

Hải quân Hoàng gia, Hải quân Đế quốc Nhật BảnHải quân Hoa Kỳ đều nhận thức vấn đề này trước năm 1905. Hải quân Hoàng gia đã cải biến thiết kế của lớp thiết giáp hạm Lord Nelson để dàn pháo hạng hai gồm những khẩu 9,2 inch (234 mm) có tầm bắn xa hơn những khẩu 6 inch (152 mm) trên những chiếc cũ hơn, nhưng một đề nghị chỉ trang bị thuần túy toàn pháo 12-inch đã bị từ chối.[6][Note 1] Thiết giáp hạm Satsuma được đặt lườn như một thiết giáp hạm toàn-súng-lớn năm tháng trước chiếcDreadnought, nhưng việc cung cấp pháo bị chậm trễ khiến nó chỉ được trang bị bốn khẩu pháo 12-inch theo như kế hoạch.[7] Hoa Kỳ bắt đầu công việc thiết kế trên một thiết giáp hạm toàn-súng-lớn vào khoảng cùng thời gian năm 1904, nhưng công việc tiến triển chậm chạp và hai chiếc thuộc lớp South Carolina chỉ được đặt hàng vào tháng 3 năm 1906, năm tháng sau khi Dreadnought được đặt lườn, và chỉ một tháng trước khi nó được hạ thủy.[8]

Phát minh ra turbine hơi nước của Charles Algernon Parsons vào năm 1884 đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể tốc độ của các con tàu, qua việc trình diễn đầy ấn tượng cho dù không được phép của chiếc Turbinia với tốc độ lên đến 34 kn (63 km/h) nhân dịp kỷ niệm Ngọc khánh lễ Đăng quang của Nữ hoàng Victoria tại Spithead vào năm 1897. Sau các thử nghiệm khác trên hai tàu khu trục vận hành bằng động cơ turbine hơi nước HMS ViperHMS Cobra, cộng với sự phản hồi tích cực khi trải nghiệm với nhiều tàu chở hành khách nhỏ trang bị turbine, Dreadnought được đặt hàng với động cơ turbine.[9]

Các trận hải chiến Hoàng HảiTsushima được Ủy ban của Fisher phân tích, với nhận xét của Đại tá Hải quân William Pakenham rằng hỏa lực pháo 12-inch của cả hai phía phô bày khả năng đâm xuyên và độ chính xác, trong khi đạn pháo 10-inch vượt qua không thể nhận thấy.[10] Đô đốc Fisher muốn ủy ban của mình xác nhận, hoàn chỉnh và áp dụng ý tưởng của ông về một tàu chiến đạt được tốc độ 21 hải lý một giờ (39 km/h) và trang bị pháo 12 inch;[11] chỉ ra rằng trong trận Tsushima, Đô đốc Togo đã có thể cắt ngang chữ T hạm đội Nga nhờ ưu thế về tốc độ.[12] Đặc biệt, đấu pháo ở tầm xa chưa từng nghe nói đến (13.000 mét (14.000 yd))[13] trong trận Hải chiến Hoàng Hải, mặc dù chưa có hải quân nước nào trải nghiệm trước trận đánh, dường như xác nhận những gì Hải quân Hoàng gia tin tưởng.[14]

Việc phát triển Dreadnought

Đô đốc Fisher đề nghị nhiều kiểu thiết kế thiết giáp hạm với dàn hỏa lực đồng nhất vào đầu những năm 1900, và ông đã tập họp một nhóm cố vấn không chính thức để hỗ trợ ông trong việc quyết định các đặc tính lý tưởng vào đầu năm 1904. Khi ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Hải quân [Note 2] vào ngày 21 tháng 10 năm 1904, ông đã thông qua Ban lãnh đạo Bộ Hải quân đưa ra quyết định trang bị thế hệ thiết giáp hạm tiếp theo với pháo 12 inch và một tốc độ không chậm hơn 21 hải lý một giờ (39 km/h). Vào tháng 1 năm 1905, ông thành lập một "Ủ ban Thiết kế", bao gồm nhiều thành viên trong nhóm không chính thức của ông, để đánh giá những đề nghị thiết kế khác nhau và trợ giúp quá trình thiết kế chi tiết. Cho dù độc lập về danh nghĩa, Ủy ban đã phục vụ để làm chệch hướng những chỉ trích nhắm vào Fisher và Ban lãnh đạo Bộ Hải quân, vì nó không có khả năng cân nhắc các lựa chọn khác hơn những gì đã được Bộ Hải quân quyết định. Fisher chỉ định mọi thành viên của ủy ban, và bản thân ông đảm nhiệm vị trí Chủ tịch.[15]

Vào ngày 18 tháng 1 năm 1905, Ủy ban đã quyết định cách bố trí dàn pháo chính, loại bỏ mọi cách bố trí tháp pháo bắn thượng tầng do lo ngại ảnh hưởng của chớp lửa đầu nòng đến các vòm quan sát mở ra của nóc tháp pháo bên dưới, và lựa chọn động cơ turbine thay vì động cơ hơi nước chuyển động qua lại để tiết kiệm 1.100 tấn Anh (1.100 t) tổng tải trọng. Trước khi được giải tán vào ngày 22 tháng 2, Ủy ban còn quyết định trên một số vấn đề khác, bao gồm số trục chân vịt (từng cân nhắc cho đến 6), số vũ khí chống tàu phóng lôi,[16] và quan trọng nhất là bổ sung những vách ngăn dọc để bảo vệ hầm đạn và phòng đạn pháo khỏi các vụ nổ dưới nước. Điều này trở nên cần thiết sau khi thiết giáp hạm Nga Tsesarevich được cho là đã sống sót sau khi trúng một quả ngư lôi Nhật trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật là nhờ những vách ngăn bên trong chắc chắn. Để tránh làm gia tăng trọng lượng choán nước con tàu, độ dày của đai giáp ở mực nước được giảm bớt 1 inch (25 mm).[17]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: HMS_Dreadnought_(1906) http://www.friesian.com/dreadnot.htm http://www.maritimequest.com/warship_directory/gre... http://www.museumofhoaxes.com/hoax/archive/permali... http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_12-45_mk10.ht... http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_3-45_mk1.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_3-50_mk1.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_6pounder_m1.h... http://www.history.navy.mil/photos/sh-fornv/uk/uks... http://www.booknotes.org/Watch/24896-1/Robert+Mass... http://dreadnoughtproject.org/tfs/index.php/H.M.S....